Phi Hồng Tuyết Trảo

Chương 12: Sư Thúc 3

Trong lúc nói chuyện, Tạ Tấn thấy Úc cô nương bỗng nhiên nghiêng đầu nhìn ra sau lưng mình.

Cảm giác được một cơn gió mạnh đánh tới từ sau lưng, còn chưa kịp nghĩ gì, giữa đại sảnh đã xuất hiện một người mặc áo bào đen.

Áo bào rộng lớn khiến người đối diện gần như không thấy rõ diện mạo của hắn, chỉ cảm thấy người này thật âm trầm, dọa y nhảy dựng.

Đậu Lệnh Phương thấy vậy lại chẳng kinh ngạc, thậm chí còn như không nhìn thấy sự tồn tại của người áo đen, vẫn kiểm kê sổ sách như thường.

Trưởng Tôn Mậu đến mắt còn chẳng thèm nâng: “Bắt được người rồi?”

“Người này quỷ kế đa đoan, giảo hoạt vô cùng, đến giờ vẫn chỉ phái bốn gã đồ đệ ra mặt, còn bản thân thì chưa từng xuất hiện.” Người áo đen thấy sắc mặt chàng tối sầm, cuống quýt bổ sung thêm một câu: “Nhưng đã bắt được kẻ lâu la, nắm được Kim Tàm của hắn, nên hắn không thể đương trường tự sát.”

Trưởng Tôn Mậu ngữ khí lạnh nhạt: “Vứt đâu rồi?”

Người áo đen vội đáp: “Còn phải mời công tử đi theo ta.”

Chàng không vội đi ngay mà ngẩng đầu nhìn Diệp Ngọc Đường, suy nghĩ giây lát rồi nói: “Ngươi uống rượu ít thôi...”

Diệp Ngọc Đường phì cười, ngắt lời chàng: “Ngươi đi làm việc của mình đi.”

Trong lòng Tạ Tấn bỗng cân bằng lại, thì ra không chỉ mình y, cô nương này chẳng cho ai mặt mũi cả, Trưởng Tôn tiền bối cũng không ngoại lệ.

Trưởng Tôn Mậu uống một ngụm trà dư, vẫn kiên trì nói cho hết câu: “... đêm nay nghỉ ngơi cho tốt, đêm mai gặp nhau ở quán ăn Linh Lục.

Mọi người đều cho là chàng đã nói xong, nào ngờ im lặng một lúc, chàng lại bồi thêm một câu: “Trong trấn người nhiều mắt tạp, đừng đi lại một mình.”

Diệp Ngọc Đường: “...”

Đến người áo đen cũng cảm thấy chuyện này hiếm thấy, quay đầu lại, đôi mắt dưới vành mũ đen sì tỉ mỉ quan sát tiểu cô nương trong sảnh.

Xem xong cũng không thấy có chỗ nào đặc biệt.

Cảm nhận được Trưởng Tôn Mậu đang nhìn mình với ảnh mắt cảnh cáo, hắn vội thu hồi ánh mắt.

Trưởng Tôn Mậu nghĩ tới một việc, bèn dặn dò Đậu Lệnh Phương: “Nếu cô nương kia trở lại thì cứ để nàng ta trọ tiếp.”

Đậu Lệnh Phương khẽ đảo tròng mắt mới nhận ta ý chàng là người tự xưng ‘Võ Khúc’ kia, bèn cười nói: “Đương nhiên rồi, nàng còn chưa thanh toán xong mà, tất nhiên phải trở lại rồi.”

Trưởng Tôn Mậu nghe vậy, đặt chén trà xuống, đứng dậy đi theo người áo đen ra khỏi cửa.

Vừa mới ra khỏi khách sạn, bóng hai người đã lóe lên, như luồng khói đen biến mất trong bóng đêm.

Khinh công như vậy tuy thượng thừa, nhưng cũng kỳ quái mờ mịt.

Tạ Tấn chợt nhớ ra chuyện gì, vụt đứng dậy đuổi theo ra ngoài mấy bước.

Đậu Lệnh Phương bỗng quát y ngừng bước: “Đừng đuổi theo! Không cần mạng nữa hả?”

Tạ Tấn nói: “Ta không đuổi theo, ta đuổi cũng chẳng kịp, chỉ là ta có một câu quên hỏi.”

“Hỏi gì mà gấp gáp như vậy?”

Tạ Tấn nói: “Ta chỉ muốn hỏi rốt cuộc vị cô nương kia có phải Võ Khúc hay không?”

Đậu Lệnh Phương hỏi: “Sao ngài lại cảm thấy là nàng ấy?”

“Nàng quá mạnh. Ta đánh không lại nàng.”

“Trên đời này kẻ mạnh nhiều lắm, hễ ngài đánh không lại thì đều là Võ Khúc à? Huống chi, ta hỏi ngài nhé, nếu năm nay ngài thắng Trường Sinh, được tông chủ ban cho một danh hiệu kiểu như ‘Nguyệt Ảnh Nhất Bích’, liệu ngài có đến chỗ nào cũng vỗ ngực tự xưng ‘Nguyệt Ảnh Nhất Bích’, sợ người ta không nhận ra mình hay không?”

Tạ Tấn cẩn thận suy ngẫm một phen, vui tới mức không giấu được: “Nói! Sao lại không nói? Ngày nào ta cũng nói, đi đến chỗ nào cũng phải hét lên một câu: ‘Ta là Nguyệt Ảnh Nhất Bích, dâng trà lên đây!’. Nếu có ai không biết, ta sẽ ghé vào tai người đó nhắc đi nhắc lại hai mươi lần, khiến họ không muốn nhớ cũng phải nhớ.”

“Vẫn là ngài lợi hại.” Đậu Lệnh Phương dựng ngón tay cái với y, cảm thấy hậu sinh này thật đáng yêu, không khỏi nhiều lời thêm hai câu: “Thực ra, nếu muốn biết người này có phải Võ Khúc hau không cũng rất đơn giản. Văn Khúc cai quản văn mực phong tao, Võ Khúc bao gồm thất sát tướng tinh. Loại người tâm cao khí ngạo như Diệp Ngọc Đường, đã là Võ Khúc, nếu nàng ấy khua chiêng gióng trống trở lại trấn Thái Ất, ngài nói xem chuyện đầu tiên nàng ấy sẽ làm là gì?”

“Làm gì?”

“Ngài nói trên trấn này có ai?”

“Bạn cũ Bùi cốc chủ, Kỳ chân nhân và Trưởng Tôn tiền bối?”

“Độc La Tiêu chứ ai!” Đậu Lệnh Phương ghét bỏ ra mặt, chỉ hận không thể gõ đầu y: “Năm đó nàng bại như thế nào thì sẽ muốn thắng lại như thế ấy. Hơn nữa, phải rửa sạch nỗi nhục trước mặt ngàn vạn người trên Lâu Quan Đài này!”

Diệp Ngọc Đường: “...”

Tạ Tấn gãi đầu nói: “Là như vậy sao?”

Nghe hai người bọn họ nói chêm chọc cười, Diệp Ngọc Đường bỗng nhớ tới một chuyện.

Nàng dựa vào quầy, hỏi: “Đậu tiên sinh, vì sao không thể đuổi theo mật thám của Kiếp Phục Các?”

Đậu Lệnh Phương trả lời: “Lần trước có người dám đuổi theo mật thám của Kiếp Phục Các, ngày hôm sau đã bị nổ chết ở đầu đường.”

“Nổ chết? Chủ nhân của Kiếp Phục Các là hạng gian ác gì mà lại gϊếŧ hại mạng người như thế?”

Đậu Lệnh Phương nói: “Gian ác gì chứ? Đây là quy củ, không thể phá hỏng.”

Diệp Ngọc Đường nhíu mày, hỏi tiếp: “Trưởng Tôn Mậu đang thay Kiếp Phục Các làm chuyện gì?”

Đậu Lệnh Phương trả lời: “Chuyện này thì ta không biết.”

Diệp Ngọc Đường ngẩng đầu đánh giá khách sạn Yên Vân này, khó hiểu hỏi: “Không phải ngươi cũng là người của Kiếp Phục Các à?”

“Người bên trên làm gì, ta không tiện nghe ngóng nha.”

Diệp Ngọc Đường nhìn ra bóng đêm như mực ngoài kia, lẩm bẩm: “Sinh ra trong nhà Trưởng Tôn không lo cơm ăn áo mặc, rảnh rỗi không có việc gì làm sao lại đi bán mạng cho Kiếp Phục Các làm gì chứ...”

Đậu Lệnh Phương nói: “Nghe nói Trưởng Tôn công tử là bạn tốt của các chủ.”

Diệp Ngọc Đường mỉm cười: “Kể ra cũng trọng nghĩa khí.”

Thanh Long Tự giới luật sâm nghiêm, cấm cửa sớm hơn chỗ khác một canh giờ. Thấy canh giờ đã đến, hai người bèn đứng dậy từ biệt Đậu Lệnh Phương.

Ra khỏi cổng khách sạn Yên Vân, còn chưa kịp đi lên cây cầu ngoài cửa khách sạn Phong Tuyết Châu thì đã bị một cô nương khí thế hung hãn chặn đường.

Diệp Ngọc Đường thấy nàng ấy bận đoản đả màu đỏ thẫm, đoán chắc lại là vận đào hoa của tên tiểu tử này, bèn im lặng.

Tạ Tấn lại mỉm cười: “Đồng nhi sư muội, khéo quá.”

“Ta đợi huynh một đêm, đợi tới bây giờ, huynh cảm thấy có khéo hay không?”

“Vậy thì thực không khéo...”

“Đi đâu lêu lổng đấy?”

“Ta đi vá kiếm, các sư tỷ đều biết mà.”

“Mấy sư tỷ đều nói huynh đi với một, một cô nương xinh đẹp, cũng không biết đi đâu lêu lổng suốt đêm.”

Diệp Ngọc Đường cảm thấy chuyện này không liên quan gì đến mình bèn nhấc chân muốn đi.

Giang Đồng lại cất tiếng gọi giòn giã: “Đứng lại.”

Nàng liếc phía sau bên phải, đi lui hai bước, hỏi: “Cô nương có chuyện gì?”

Giọng điệu rất thân thiện hữu hảo.

Giang Đồng chẳng biết phải trấn áp nàng thế nào, khí thế toàn thân bỗng xẹp xuống, suy nghĩ nửa ngày, giọng điệu cũng nhỏ lại: “Không có chuyện gì cả.”

Diệp Ngọc Đường thấy đùa cô nàng thật vui, bụng nghĩ, tiểu cô nương này thú vị quá. Nói xong còn vỗ vai Tạ Tấn, bảo y “Dịu dàng chút”, sau đó quay người đi thẳng về khách sạn.

Tạ Tấn vội hét lên: “Đừng bỏ lại ta một mình mà...”

Bên này, Giang Đồng lại nhịn không được tò mò, quay đầu lại mở to mắt nhìn nàng mấy lượt.

Vóc dáng của nữ tử có phần nhỏ nhắn, ăn mặc không giống người giang hồ: Bên trong mặc áo dài xẻ hông màu lam đậm dài đến đầu gối, bên ngoài khoác áo mã giáp (*) màu trắng thắt nút lại. Khăn lụa đen bọc lấy búi tóc, trên khăn buộc một đai tóc màu trắng.

(*) mã giáp (马甲): áo gi-lê.

Hẳn là xuất thân từ phú hộ, chuyến này treo đơn xuất hành, để thuận tiện bèn mặc nam trang nhẹ nhàng thoát tục, nhưng vì y phục lỏng lẻo nên chẳng có tác dụng giả trai.

Bước chân đi lại dồi dào sức sống nên không để lộ chân cẳng bất tiện.

Khuôn mặt thanh thanh tú tú, nhưng khí thế lại rất mạnh.

Chờ Diệp Ngọc Đường bước vào cửa lớn khách sạn Tuyết Châu rồi, nàng ấy mới quay đầu lại, nhỏ giọng phụng phịu hỏi Tạ Tấn: “Nàng là ai?”

Tạ Tấn đáp: “Là Úc cô nương treo đơn đến luận kiếm.”

“Huynh đi lêu lổng với nàng ấy suốt một đêm?”

“Gì mà lêu lổng, Úc cô nương tốt bụng dẫn ta đi vá kiếm.”

Giang Đồng tức đến mức hai mắt đỏ hoe: “Huynh còn bảo vệ nàng ấy, nàng ấy có gì tốt đến thế?”

Tạ Tấn nghĩ bụng, cái gì tùm lum tùm la vậy. Nhưng ngoài miệng vẫn nói lời an ủi: “Ta chỉ mới quen nàng ấy vào ngày hôm qua thôi.”

“Huynh mới quen vào hôm qua mà đã bảo vệ nàng như thế?”

Tạ Tấn nghe nàng ấy khóc lóc ăn vạ mà hết cách, chỉ đành nói: “Úc cô nương không phải là người cùng đường với chúng ta, luận kiếm xong còn phải về quê làm đại tiểu thư. Đại tiểu thư như nàng ấy còn khuya mới khí phái bằng đại tiểu thư Tuyết Bang như muội. Hơn nữa, tính tình Úc cô nương quái đản, ta thấy nàng ấy, chạy còn không kịp nữa là bảo vệ?”

Giang Đồng nghe y nói xấu Úc cô nương thì thoải mái hơn, nói: “Võ công của nàng ấy lợi hại không, xếp hạng thứ mấy?”

“Võ công cũng chỉ biết chút da lông thôi, ngay cả khi Trưởng Tôn tiền bối làm Long đầu cho nàng cũng chỉ dám đảm bảo nàng có thể chạm đến rìa bảng.” Tạ Tấn vừa nói bừa vừa cảm thấy áy náy, trong lòng không ngừng cáo lỗi với Úc cô nương.

“Lục thúc làm Long đầu cho nàng ấy?” Giang Đồng thành công bị đánh lạc hướng chú ý: “Cũng chỉ chạm đến rìa bảng? Đây không phải là chỉ biết chút da lông, mà là chẳng có chút công phu nào.”

“Đúng thế, muội tức giận với nàng ấy làm gì.”

Giang Đồng hừ một tiếng, cuối cùng cũng vui trở lại.

Tiếp đó lại tự tìm bậc thang cho mình xuống: “Huynh biến mất một đêm, muội lo muốn chết nên mới trách tội nàng ấy.”

Ngoài miệng Tạ Tấn không ngừng tán đồng: “Phải phải phải, Đồng nhi nói đúng lắm.”

Mặt không biến sắc lừa cô nãi nãi này về khách sạn, phí bao nhiêu là công sức, cuối cùng cũng dỗ được người về phòng đi ngủ, dỗ đến mức mồ hôi đầy đầu, bình thường luyện võ cũng không thấy tốn thể lực thế này.

Thở dài một hơi, thầm nhủ: Tuy tính khí của Úc cô nương quái đản, không dễ ở chung, nhưng tới nhanh đi nhanh, khiến người ta dễ chịu vô cùng, Giang Đồng mà có được nửa phần như Úc cô nương thì y đã chẳng mệt nhọc như vậy.

Y chợt nghĩ, nếu Úc cô nương có thể thấy được là thu tay, vừa dỗ là ngoan như Giang Đồng, vậy thì...

Dừng lại, dừng lại.

Giật mình nhận ra bản thân lầm đường lạc lối, Tạ Tấn lập tức dừng lại, trong lòng tự thóa mạ: Ngươi là cái thá gì mà đòi sai khiến người ta?

Nói xong bèn tát cho mình một cú vang dội, khiến cho vị sư huynh mới đi ngang qua nhìn mà ngu người.

Y cúi đầu xuống, thấy là Giang Trung Quang bèn xoa xoa gương mặt đỏ bừng, nhoẻn miệng chạy xuống lầu, hỏi: “Sư huynh luyện kiếm thế nào rồi?”

Giang Trung Quang đáp: “Ngày mai chắc cũng không đến nỗi thua trận, rốt cuộc hôm nay cũng có thể ngủ ngon một giấc. Sư đệ thì sao, luyện kiếm thế nào rồi?”

Tạ Tấn mới học được thức thứ chín Nguyệt Ảnh Kiếm, còn xa mới có thể nói là thuần thục, nhưng chỉ nhờ hai câu chỉ điểm bộ pháp của Úc cô nương, chỉ trong thời gian ngắn đã ngộ ra chỗ huyền diệu trong bộ kiếm pháp này, chẳng trách người đời thường nói Nguyệt Ảnh Kiếm là công phu ‘cơ biến’ nhất thiên hạ, thì ra tám thức đầu mà y đã sớm thuộc nằm lòng và lấy làm kiêu ngạo vẫn chưa từng vào được ngạch cửa của ‘cơ biến’.

Trong số các nam đệ tử cùng lứa, chỉ có y và Giang Trung Quang đã luyện tới thức thứ chín, giờ phút này tinh thần y sung túc, bèn muốn chia sẻ điều tâm đắc vừa mới ngộ ra với đồng môn sư huynh.

Tạ Tấn lập tức mở miệng mời: “Mời sư huynh theo đệ đến trong sân, nhìn xem thức thứ chín Nguyệt Ảnh Kiếm của đệ có gì khác biệt.”

Giang Trung Quang lưỡng lự gật đầu, đặt chậu gỗ múc nước tắm xuống, theo y tới trong sân.

Tạ Tấn thi triển một lượt thức thứ chín dưới ánh trăng rồi thu kiếm quay đầu lại, cười hỏi: “Sư huynh thấy thế nào?”

Giang Trung Quang chưa nói gì, một lúc sau mới khen ngợi: “Hay! Thức thứ chín biến hóa trăm chiêu, phối hợp với chỗ kỳ diệu trong bộ pháp sáu mươi tư quẻ lại càng thiên biến vạn hóa. Trong số các đệ tử của ngàn nhà, ta thật sự nghĩ không ra ai có thể thuận theo vạn biến.”

Tạ Tấn lại hỏi: “Sư huynh lĩnh ngộ được chưa?”

“Ngộ sơ sơ được hai, ba thành.”

“Sư huynh thử xem.” Tạ Tấn chìa kiếm ra: “Sư huynh tài hoa thiên bẩm, hễ thử một lần, tự nhiên có thể ngộ thêm hai thành.”

Giang Trung Quang có chút lưỡng lự.

Sư đệ này của hắn thiên tư cực cao, từ ngày nhập môn đã nổi bật vượt trội. Chỉ trong ba năm, võ công đã tiến triển đến mức dù hắn có thúc ngựa cũng đuổi không kịp. Cho đến năm nay, hắn tự áng chừng đánh với sư đệ một trận, tỷ lệ thắng không vượt quá ba thành.

Hôm nay bị sư đột ngột gọi ra xem thức thứ chín, vốn tưởng rằng y có lĩnh ngộ mới, đặc biệt gọi mình tới để khoe khoang.

Hắn nhìn thiếu niên này đánh ra thức thứ chín tuyệt diệu khôn xiết, bỏ xa thức thứ chín mà bản thân đã thuần thục một cách máy móc, nhất thời ghen ghét dữ dội, chẳng còn lòng dạ nào xem kỹ kiếm chiêu.

Gần đến cuối, về phần kiếm chiêu hay ở chỗ nào cũng chỉ lĩnh ngộ được hai thành.

Bây giờ thấy Tạ Tấn đưa bội kiếm tới, là thực sự muốn chia sẻ lĩnh ngộ của bản thân với mình.

Giang Trung Quang chợt ngây người.

Đứng ngây người dưới ánh trăng hồi lâu mới hỏi: “Sư đệ, tại sao đệ lại nói cho ta biết kiếm pháp này?”

Tạ Tấn cười đáp: “Tông chủ từng nói Chung Nam Luận Kiếm là để ‘dùng võ kết bạn’, kết bạn chứ không phải kết võ. Đệ nghĩ ý của tông chủ là võ công dù cao đến đâu cũng không thể khỏa lấp sức nặng của tình nghĩa?”

Giang Trung Quang nghe vậy, trên mặt như bị giáng một cú bạt tai thật mạnh, trong lòng trộn lẫn hổ thẹn và không cam, cũng không biết là tư vị gì.

Nhận lấy Tuyết Nguyên, nắm chặt trong tay, nhất thời mọi nhục nhã, bức bối dồn nén thành sức lực, một kiếm rồi lại một kiếm nối tiếp nhau mà ra.

Cho đến khi trán đẫm mồ hôi mới thu kiếm, dần cảm thấy trong lòng thoải mái, quay đầu lại hỏi: “Sư đệ, Phục Hi sáu mươi tư bộ khó hiểu như thế, đám sư huynh đệ chúng ta cũng chỉ học cho biết, sao sư đệ lại nghĩ ra kết hợp nó với thức thứ chín?”

Tạ Tấn nghe vậy, đang định kể lại chi tiết chuyện đêm qua gặp được Úc cô nương ở Thanh Long Tự cho sư huynh, nhưng nghe đến ‘sư huynh đệ chúng ta’ thì chợt nhớ đến một chuyện...

Biến pháp trong bộ pháp của các môn phái nhiều như lông trâu, ai có sở trường nấy; để đạt được một chữ ổn, phần lớn đệ tự danh môn Trung Nguyên hiện nay đều tập Nam Quyền Bộ Pháp và Thái Cực Bộ từ nhỏ, đa số là nhất nhị bán cung đinh bộ, rồi đến biến pháp Đơn Song Điệp và Kị Long Bộ. Bộ pháp này vừa nhập môn đã học, luyện một mạch mười năm, trung dung có thừa, nhưng tiêu sái không đủ.

Trên giang hồ còn lưu truyền một loại bộ pháp khác tên là [Phục Hi sáu mươi tư bộ], bộ pháp này huyền diệu, được mệnh danh là ‘Bước nhẹ như cánh ve, trộm đổi như mèo dạo’, nhưng rất khó để nắm bắt đúng mực, phảng phất như nước xối từ trên cao xuống, không có danh sư chỉ điểm thì rất dễ lầm đường lạc lối, tẩu hỏa nhập ma, cũng vì thế mà bị các chính tông đưa vào sách cấm. Sách này trong âm thầm bị đổi tên thành [Cách rèm lộng hoa], nghe cứ như da^ʍ thư. Cũng nhờ vậy mới không bị sư trưởng tịch thu, để rồi lưu truyền tới tận hôm nay. Nhưng biết đâu được các sư trưởng cũng từng xem rồi, chỉ là không tiện thừa nhận, nên mới chưa thấy ai truy cứu.

Nhưng thứ này trước giờ chỉ lưu truyền giữa các nam đệ tử với nhau, rốt cuộc Úc cô nương đã học được từ đâu?

Nghĩ đến đây, Tạ Tấn khẽ cười, bụng nghĩ, hay lắm, không ngờ Úc cô nương lại là người như thế.

Giang Trung Quang nghe thấy tiếng cười khẽ của y, cơn ghen ghét vừa mới lắng xuống lại bùng lên như lửa, nghiến răng kèn kẹt, nhịn rồi lại nhịn, bấy giờ mới chậm rãi hỏi: “Sư đệ? Thức thứ chín này của ta có chỗ nào không tốt, lại khiến sư đệ bật cười?”

Tạ Tấn bỗng chốc hoàn hồn, vội vàng ôm quyền xin lỗi, giải thích: “Vừa rồi đệ nghĩ đến một chuyện cười.”

Chuyện Úc cô nương từng xem [Cách rèm lộng hoa] không tiện nói cho người khác, chỉ đành nói: “Hôm nay đánh nhau với người ta rồi nghiền ngẫm ra, chỉ là gặp được vận may mà thôi.”

Tự biết lúc nãy đã thất lễ với sư huynh, Tạ Tấn bèn lấy công chuộc tội: “So với huynh thì đệ hãy còn kém xa. Sư huynh nội công thâm hậu, vận khí tự nhiên, thức thứ chín vượt xa đệ, sư đệ hổ thẹn không bằng, nếu hôm nay là sư huynh, ắt đã thắng vị cao nhân đó.”

Lời đã dứt, Giang Trung Quang lại không tiếp lời, mà nhìn ra sau lưng mình.

Tạ Tấn nhìn theo ánh mắt hắn, liếc thấy một cây quế, giờ khắc này cành quế đong đưa như thể vừa nãy có cơn gió nhẹ phất qua.

Giang Trung Quang bỗng cảnh giác nói: “Sư đệ, thời gian không còn sớm nữa, ngày mai luận kiếm cần nghỉ ngơi dưỡng sức, chúng ta mau về phòng ngủ thôi.”

Tạ Tấn ừ một tiếng, cùng hắn băng qua sân.

Trước khi vào nhà, y ngẩng đầu thoáng nhìn.

Bầu trời sao thưa trăng sáng, cũng không biết cơn gió vừa rồi từ đâu đến.

Chỉ biết ngày mai nhất định là một ngày nắng chói chang.

Trong lòng Giang Đồng đã có kẻ địch giả tưởng, chỉ chăm chăm muốn đào hết gốc gác ngọn ngành của nàng kia, tất nhiên không chịu ngoan ngoãn đi ngủ. Thừa dịp Tạ Tấn luyện kiếm ở sân sau, nàng ấy lén lút ra khỏi khách sạn Phong Châu, tìm được một kẻ hành nghề quản lý tiệm cầm đồ để nghe ngóng, bỏ ra ba tháng tiền tiêu vặt mình tích cóp được để thăm dò Úc cô nương.

Tình địch là động lực vươn lên hàng đầu của nữ nhân, lời này quả nhiên không sai.

Động tác của tên quản lý cũng nhanh nhẹn, chỉ mất ba đến năm khắc đã bỏ hết tư liệu thăm dò được vào một phong thư rồi niêm phong lại.

Trước đây nàng ấy từng nghe ngóng không ít tình địch khác, chẳng hạn như Dư Tri Vi của Chung Nam, Bảo Bảo của Động Đình Các, hay đám Bùi Tuyết Kiều, Bùi Thi của Phượng Cốc; ai khi còn bé không ăn rau chỉ ăn thịt, có lần cân nặng lên đến một trăm bốn mươi cân (70 kg); ai lần đầu đến kinh nguyệt sợ hãi tưởng rằng mình bị bệnh nan y; ai từng được bao nhiêu đồng môn, bao nhiêu đệ tử ngoại bang theo đuổi... đều có thể tra xét rõ ràng. Như Bùi Tuyết Kiều là lắm chuyện nhất, bỏ ba lượng bạc mua tư liệu về nàng ta mà hệt như mua cả một quyển sách, cầm trong tay đọc ròng rã ba ngày ba đêm mới xong.

Nàng cứ tưởng lần này cũng sẽ mua được một xấp giấy thật dày, cũng sẽ đọc được cuộc sống tẻ nhạt, đầy những chuyện vụn vặt hằng ngày của một thiếu nữ bình thường, nào ngờ phong thư này lại vô cùng mỏng manh.

Giang Đồng cầm trong tay sờ một lát hãy còn không tin; đợi đến lúc rút lõi thư ra, trên giấy chỉ viết vỏn vẹn mấy câu: Thuở nhỏ mất mẹ, được Kiếm Nam chi độ kinh lược sứ đương nhiệm Úc Thường nhận làm con thừa tự, mười sáu tuổi bệnh nặng tái phát, Úc Thường cầu y khắp nơi không được, được danh y đề nghị đưa đến Thanh Long Tự, thường xuyên tụng kinh luyện công với các sa môn trong chùa, dưỡng bệnh được mấy tháng mới giữ được tính mạng. Gần đây tinh thần dần tốt lên, vừa hay sắp tới Chung Nam Luận Kiếm, vì nàng biết chút công phu, Úc Thường bèn tìm Tầm Giới đại sư đề nghị cho Úc Linh Chiêu treo đơn xuất hành theo chùa.

“...” Nàng giận muốn tăng xông, lập tức quay trở lại đập tờ giấy lên bàn: “Đây là cái quái gì?”

Quản lý bị nàng dọa không nhẹ, cầm tờ giấy lên đọc, sau đó mới nói: “Linh Chiêu, họ Úc, đây không phải là người mà ngài muốn nghe ngóng sao?”

Giang Đồng nói: “Ông nói ta nghe đời ai mà lại như tấm nền trong tiểu thuyết hạng ba, viết đôi ba câu là hết, ngay cả mô tả cuộc sống ngày thường cũng không có?”

“Ngài tưởng rằng ai cũng lớn lên trong gió táp mưa sa giống Giang nữ hiệp ngài à? Có một số cô nương từ nhỏ đã hiểu chuyện nghe lời, cửa lớn không ra cửa sau không bước, nuôi trong khuê phòng chẳng biết một ai, cuộc sống tuy hơi nhàm chán chút, chẳng phải cũng vì mưu cầu một đời thuận buồm xuôi gió thôi sao?”

Giang Đồng nghĩ thấy cũng đúng, không phải người giang hồ thì cuộc sống hơi nhàm chán thật, kể ra cũng không có gì lạ.

Quản lý cửa hàng thấy thái độ của nàng dịu bớt, lập tức rèn sắt khi còn nóng: “Bọn ta làm nghề này bao năm, đã bao giờ sai sót đâu.”

Mấy năm nay nàng theo đuổi Tạ Tấn, tình địch năm sau nhiều hơn năm trước, bét nhất cũng bỏ ra hơn trăm lượng để mua thứ tin tức này rồi, hiệu cầm đồ quả thực chưa bao giờ sai sót.

Nghĩ vậy bèn thôi.

Rời khỏi tiệm cầm đồ, trở lại khách sạn Phong Tuyết Châu, lúc đứng trên cầu chợt nghe thấy dưới chân vang lên tiếng “oa oe, oa oe”, nghe cứ như tiếng trẻ con khóc.

Nàng ngừng chân bên cầu, nhìn xuống mặt sông.

Trước cửa khách sạn Phong Tuyết Châu có treo đèn l*иg, vì vậy mà mặt sông cũng bồng bềnh ánh sáng đỏ.

Trên sóng nước màu đỏ không hiểu sao lại lóe lên ánh trong vắt nhàn nhạt, đại khái là mấy con nhện nước vừa mới bò qua.

Bụi cỏ bên bờ sông cũng có hơn mười chấm đỏ, to chừng hạt đậu, hai chấm thành đôi, lập lòe chớp động. Tiếng “oa oe, oa oe” là truyền tới từ chỗ lập lòe ánh sáng đỏ đó.

Thì ra là một đám ếch nhái.

Giang Đồng thở phào một hơi, xoa xoa cánh tay đã cứng đờ vì rét lạnh nơi núi sâu, chạy một mạch về khách sạn Phong Châu.