Phi Hồng Tuyết Trảo

Chương 7: Võ Khúc 6

Đại sư trụ trì của Thanh Long Tự tuân thủ nghiêm ngặt lời răn của Phật, vốn là Minh Giới, nhưng cứ khăng khăng gọi hắn là “Tầm Giới”.

Sa môn rượu thịt chưa bao giờ giữ gìn thanh quy giới luật như Trưởng Tôn Mậu thì gọi là “Minh Giới”.

Sư phụ một đời anh minh, nếu nói người đã từng phạm hồ đồ chưa, nàng cảm thấy chắc là hai lần.

Lần thứ nhất là lúc nhận Trưởng Tôn Mậu làm đệ tử.

Lần thứ hai là lúc đặt pháp danh cho hắn.

Chuyến này đi lên Lâu Quan Đài, nàng tính nhìn xem sư muội thế nào, tiện thể ngó Trưởng Tôn Mậu luôn. Nếu hai người đều sống tốt, đợi nàng trừng phạt “Võ Khúc” giả trong khách sạn Yên Vân xong sẽ tới dịch trạm thuê một con ngựa, trở về Thiếu Thất Sơn, trông coi Lưu Ly Tự mà sư phụ đã dùng cả nửa đời để thủ hộ.

Nàng đi được một đoạn, chê đường núi dài, bèn đi tới chỗ ít dấu chân người trong núi, đang tính phóng người lên cao thì nghe thấy tiếng bước chân vang lên từ phía sau; ngoái đầu nhìn lại, thì ra là Tạ Tấn lưng đeo hai thanh kiếm, thế là nàng phải kiềm chế không dùng đến khinh công.

“Ngươi tới đây làm gì?”

Tạ Tấn bám theo sau lưng nàng, lẳng lặng hỏi một câu: “Có phải ngươi có ý với Trưởng Tôn Mậu tiền bối không?”

“...”

“Một cô nương gia, đi đường núi xa như vậy chỉ để ngắm mỹ nhân thì thật kỳ lạ.” Tạ Tấn nói tiếp: “Huống chi, ngưỡng mộ tiền bối thì không mất mặt.”

Tạ Tấn thường nghe người ta nói một câu như thế này: Tạ Chi Văn dễ được, Trưởng Tôn Mậu khó cầu.

Lúc đầu mới nghe có chút không phục. Tạ Tấn cảm thấy bản thân mình cũng rất hiếm có khó tìm cơ mà.

Nhưng năm bảy tuổi lần đầu tiên nhìn thấy Trưởng Tôn Mậu ở bên ngoài Tuyết Bang, nói thế nào nhỉ, chính là cảm thấy, thật sự phục rồi.

Diệp Ngọc Đường nhìn y, chợt cười khì, nhưng không nói gì.

Trong bụng thầm nhủ, nếu ngươi không đi theo thì chớp mắt ta đã đi hết đoạn đường núi này rồi.

Càng huống chi là ngưỡng mộ Trưởng Tôn Mậu, câu này nói ra khỏi miệng thật mất mặt.

Hai người không hợp ý, một đường im lặng lên núi. Đi được hai dặm, cây cối trước mắt càng lúc càng um sùm, rừng rậm sum suê; loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, đoán chừng gần đó có con suối nào đó hợp dòng với sông Thái Ất.

Đi đến đây, Diệp Ngọc Đường dừng chân lại, ngẩng đầu nhìn lên.

Trong núi mây mù giăng kín, không thể nhìn rõ, nhưng nghe tiếng phân biệt thì dòng suối này chảy từ trên xuống. Nơi dòng suối đi qua lộ ra mái xanh cột đỏ mờ mờ, hẳn là Yết Tâm Quán. Đạo quán cách chỗ này bảy tám trượng, nhưng nếu men theo đường núi đi lên thì phải đi cả một dặm.

Diệp Ngọc Đường dừng chân lắng tai, mơ hồ nghe được tiếng tụng kinh truyền ra từ Yết Tâm Quán.

Lâu Quan Đài miếu thờ đông đúc, chỗ này khuất nẻo, Yết Tâm Quán lại là một tiểu quán to bằng hạt vừng. Kỳ Thận lấy danh nghĩa thưởng trà đàm đạo, hằng năm đều mời hai vị khách giang hồ đến đạo quán hẻo lánh này là để bày đàn tế?

Nàng càng nghĩ càng thấy kỳ quái: “Bái thần tiên?”

Tạ Tấn cũng dỏng tai lên nghe, nghe một lúc rồi nói: “Cái này gọi là bái đẩu.” (*)

(*) bái đẩu (拜斗) là kính ngưỡng xuất phát từ sự sùng bái của người đời đối với các vì tinh tú, liên quan tới sống chết họa phúc của con người. Bắc Đẩu tinh quân nắm giữ trừ nạn giải tai, Nam Đẩu tinh quân nắm giữ kéo dài tuổi thọ và mang lại phúc lành. Vì vậy bái đẩu là một nghi lễ giúp trừ nạn giải tai, cầu mong phước lành và sống lâu.

“Người trong nghề hả?”

“Biết được chút chút.”

“Bái thần tiên phương nào vậy?”

“...” Tạ Tấn từ bỏ, không uốn nắn nàng nữa, chỉ nói: “Hẳn là đang làm lễ truy điệu người nào đó. Đi thêm một một lúc nữa là đến, có lên xem không?”

“Không đi nữa.”

“Hả?”

“Cầm giúp ta cây gậy, ta leo lên nghe xem bọn họ đang nghe kinh gì.”

Tạ Tấn thình lình bị nhét cho cây gậy, sau đó thấy nàng tiện tay cuộn tay áo dài quá khổ lại, nhẹ nhàng đu lên một cành tùng vừa dài vừa mảnh đang rũ xuống, lặng yên không một tiếng động nhảy ra ngoài hai ba trượng; thân pháp nhẹ nhàng không gì sánh được, tựa như một đυ.n mây, những nơi nàng lướt qua, chạc cây nhỏ bé chỉ hơi rung lên một chút, ngay cả sương sớm trên cành cũng chưa từng rơi xuống một giọt, dù có cơn gió nhẹ lướt qua cũng chẳng thể không để lại chút dấu tích như nàng.

Linh hoạt lên xuống ba lần, chỉ trong chớp mắt, nàng đã nằm sấp trên bức tường của Yết Tâm Quán, quả thực nhẹ nhàng như không.

Người này tứ chi mảnh dẻ, lại ăn bận y phục màu chàm từ đầu đến chân, từ xa nhìn lại trông giống như một con thạch sùng đang bò trên tường.

Chà! Khinh công thượng thừa quá!

Tạ Tấn nhìn mà trợn mắt há hốc mồm.

Y còn chưa kịp mở miệng, nàng đã giơ ngón trỏ lên ra hiệu im lặng.

Y lập tức gật đầu, sau khi thán phục, trong lòng không khỏi nghi hoặc: đánh nhau cần hạ bàn, vượt nóc băng tường thì không cần hạ bàn hả?

Diệp Ngọc Đường lên đến mép tường đạo quán, nín thở nghe trộm.

Tai vừa dán lên tường đã nghe thấy tiếng thở dài của một nữ tử: “Nếu sư tỷ của ta còn sống, năm nay cũng hai mươi tám rồi, nhận y bát pháp khí của đại sư cũng là chuyện tất nhiên.”

Tiếp đó còn nói: “Nói câu không xuôi tai, dù là Hoằng Pháp đại sư tọa hóa (*) thì lúc này vẫn tìm được xá lợi vụn thân. Sư tỷ của ta chết rồi, ngay cả thi thể cũng chưa tìm được.”

(*) tọa hóa (坐化): đạo Phật chỉ hoà thượng ngồi chết.

Diệp Ngọc Đường nghe mà vừa bực mình vừa buồn cười.

Nghĩ bụng: muội nhớ sư tỷ, sư tỷ biết rồi. Nhưng sư muội à, không phải sư phụ của mình thì không đau lòng đúng không?

Nhưng nghĩ lại, nếu có người nói với nàng: Mẹ ngươi và sư phụ Hoằng Pháp của ngươi cùng tạ thế. Vậy thì nàng vẫn đau lòng vì sư phụ hơn.

Kỳ Thận nghe không nổi nữa, ngắt lời nàng: “Hoằng Pháp đại sư tinh thông Phật pháp, võ công uyên thâm, lòng mang thương sinh, thế hệ chúng ta phải biết kính trọng.”

Bùi Thấm không kiên nhẫn: “Đúng, đúng đúng, Kỳ chân nhân nói rất đúng! Cho nên loại người phàm tục như ta không có đạo tâm sắc đá như ngài, sư điệt ruột thịt mà sư phụ ta, sư tỷ ngài đích thân phó thác cho ngài đã chết rồi, ngày giỗ tám năm của nàng đã sắp đến mà mà ngài còn tâm trạng mời bọn ta uống trà. Bọn ta đáng kiếp trọn đời không có tiên duyên, chết già ở cõi tục phương Đông.”

Kỳ Thận im lặng như lười so đo với nàng.

“Dù chỉ là một khối thi thể, ta cũng muốn gặp lại sư tỷ, tự tay chùi rửa thân thể, tự tay mai táng cho nàng. Trưởng Tôn Mậu, nhiều năm như vậy rồi, ngay cả ngươi cũng không biết sao...” Bùi Thấm như nhớ tới chuyện gì, đột nhiên hét lên: “Trưởng Tôn Mậu?”

Kỳ Thận ồ một tiếng, nói: “Lúc nãy hắn nghe thấy động tĩnh nên ra ngoài xem rồi.”

Trong lòng Diệp Ngọc Đường đang nghĩ: Làm gì có động tĩnh nào?

Còn chưa hồi thần đã nghe thấy Tạ Tấn ở bên dưới nhỏ giọng hô: “Trưởng Tôn tiền bối...”

Tạ Tấn vừa dứt lời, thịch một tiếng, một vật thể màu chàm không xác định một đường vượt mọi chông gai, từ trên núi ngã thẳng xuống khe suối.

Bùi Thấm duỗi đầu ra, vừa nhìn xuống dưới thì bắt gặp cảnh tượng này.

Một chàng thiếu niên Tuyết Bang mặt mũi tuấn tú ôm một cây gậy lấp lánh ánh sáng vàng, đứng dưới con đường mòn dẫn lên núi, hướng về phía con suối trong khu rừng rậm rạp hét lớn: “Úc cô nương, cô có ổn không, nói câu gì đi!”

Trưởng Tôn Mậu vừa mới từ trong đạo quán đi ra, đi được nửa đường thì nghe thấy một tiếng vang cực lớn, lập tức dừng bước liếc sang, không lên tiếng, chỉ nhìn.

Trong nước có thứ gì đó đen như mực trôi nổi bồng bềnh, tự dạt vào bờ. Sau khi lên bờ thì cử động mấy cái, tự thành hình dạng, tự mình đứng dậy đi lại mấy bước.

Bùi Thấm chợt tỉnh ngộ: Thì ra là một tiểu cô nương mặc đồ đen sũng nước vừa mới bơi xong.

Trong lòng nàng thầm buồn cười: Thiếu niên bây giờ yêu đương thật có nhã hứng, thú vị. Một người hướng nội ngoan ngoãn, một người hướng ngoại hoang dã, ngoại hình đều đẹp đẽ như nhau, rất là xứng đôi vừa lứa.

Lòng thấy vui vui, bèn đứng từ đằng xa hỏi thăm: “Hai vị hậu sinh gì ơi, hai người tên là gì, là môn hạ của vị sư trưởng nào?”

Dứt lời, thiếu niên trả lời trước: “Tại hạ Tạ Tấn, là thân truyền đệ tử đời thứ mười Nguyệt Ảnh Tông Tuyết Bang.”

Nghe thấy ba chữ Nguyệt Ảnh Tông, trong lòng Bùi Thấm khẽ ồ một tiếng, lại hỏi: “Còn vị nữ hiệp này thì sao?”

Nàng kia không lập tức trả lời, cả người ỉu xìu nhếch nhác, từ trong bụi cỏ bò lên đường núi.

Lúc nàng bò lên, Trưởng Tôn Mậu vừa hay đứng ngay con đường núi trên đầu nàng, cúi đầu nhìn xuống, ngẫm nghĩ một chút rồi dừng chân lại, bước lùi ra sau một bước. Vừa vặn để lại cho nàng một vị trí để tiện trèo lên bằng cả tay lẫn chân... mà không làm ướt y phục của chàng.

Nàng khịt mũi, chụp lấy pháp trượng trong tay Tạ Tấn, cầm trong tay chống xuống đất. Sau khi đứng vững, đang muốn nói chuyện thì hắt hơi một cái thật vang.

Tạ Tấn giơ tay áo lên, cẩn thận lau mặt cho nàng.

Bùi Thấm thấy vậy thì bật cười, lại hỏi tiếp: “Cô nương, ngươi là môn hạ của vị sư trưởng nào, tên là gì nha?”

Diệp Ngọc Đường vuốt mặt đáp: “Tại hạ Ngọc Lê... Úc Linh Chiêu, treo đơn tới luận kiếm.”

“Mời vị Long đầu nào?”

Diệp Ngọc Đường không đáp.

Tạ Tấn thấy nàng ngó lơ người ta, bèn đáp thay: “Vẫn chưa mời Long đầu, nhưng từng mời Võ Khúc tiền bối ở khách sạn Yên Vân tỷ thí võ công.”

Bùi Thấm cười nói: “Võ Khúc? Ai nói nàng ta là Võ Khúc?”

Tạ Tấn đáp: “Nàng ta tự nói mình là Võ Khúc tái thế.”

“Nàng ta nói sao thì ngươi tin vậy à?”

“Nhưng nàng có Đạt Ma Trượng.”

“Tám năm qua, người tự xưng là chuyển thế của sư tỷ của ta cũng phải mấy chục rồi nhỉ? Cái đám công phu dưa vẹo táo nứt đó có xách giày cho sư tỷ của ta cũng không xứng. “Võ Khúc” lần này còn làm Long đầu cơ à, có còn trên trấn không? Ta phải đi xem xem tôn sư của nàng ta là Đạt Ma nhà nào mới được.” Nàng cả cười, cúi đầu hỏi: “Trưởng Tôn Mậu, ngươi có đi không?”

Trưởng Tôn Mậu đáp: “Đi.”

Bùi Thấm hỏi tiếp: “Ngươi treo đơn ở tông môn nào?”

Diệp Ngọc Đường trả lời: “Môn hạ của Tầm Giới đại sư ở Thanh Long Tự.”

Bùi Thấm cười nói: “Ồ, vậy thì thật khéo, hai người tuy không phải đồng môn nhưng đều gọi vị Trưởng Tôn tiền bối này một tiếng… sư thúc.”

Mẫu thân của Trưởng Tôn Mậu là biểu muội của Giang Dư Mang, vì lẽ đó đệ tử Tuyết Bang có thể gọi chàng là sư thúc.

Lúc trước khi Hoằng Pháp còn ở Thanh Long Tự, Tầm Giới từng là đại đệ tử Phật pháp uyên thâm của ông; sau khi đến Lưu Ly Tự, Trưởng Tôn Mậu lại gia nhập sa môn, được ban pháp danh Minh Giới, là sư đệ của Tầm Giới, vậy thì Úc Linh Chiêu cũng nên gọi chàng một tiếng sư thúc.

“Đúng vậy.” Tạ Tấn đáp rất sảng khoái, quay đầu sang đối diện với người trước mặt gọi một tiếng: “Trưởng Tôn sư thúc.”

Trưởng Tôn Mậu quay đầu sang nhìn nàng.

Nàng chẳng ừ hử tiếng nào, chỉ ngẩng đầu lên liếc chàng một cái, tính xây dựng tâm lý cho bản thân vì đột ngột bị hạ thấp vai vế.

Lúc nhìn qua, nắng sớm vừa vặn rơi trên gương mặt có phần lạnh nhạt của chàng.

Tóc đội mão bạch ngọc, khí chất cũng tự nhiên như ngọc thô. Vóc dáng vốn không thấp, song tấm áo choàng màu đỏ tía quá mức rộng thùng thình, lúc này nhìn có chút gầy gò như bơi trong áo.

Khuôn mặt nhợt nhạt trông thật lãnh đạm, so với trâm ngọc trên đầu còn ít sắc hồng hơn.

Nàng nhìn ở trong mắt, bỗng thấy giật thót tim.

Đại gia này… là Trưởng Tôn Mậu?

Nàng lại ngẩng đầu đánh giá chàng mấy lượt, càng nhìn càng thấy hoài nghi: Tên sư đệ đầu tròn của nàng với cái người mặt mũi lạnh lùng hà khắc trước mắt dường như chẳng có chút liên quan nào thì phải?

Nhưng nếu chỉ xét ngũ quan thì đúng là chàng không thể nghi ngờ.

Giữa núi rừng yên ắng tột độ, Tạ Tấn đợi không nổi, dùng khuỷu tay huých nàng một cái, nhỏ giọng nói: “Một tiếng sư thúc khó gọi vậy sao?”

Diệp Ngọc Đường nghĩ bụng: Khó thật đấy.

Trưởng Tôn Mậu đột nhiên mở miệng hỏi: “Lúc nãy, người nằm sấp trên tường nghe lén là ngươi hả?”

Nàng cũng không phủ nhận: “Phải.”

Chàng lại hỏi tiếp: “Muốn nghe ngóng chuyện gì?”

Nàng nói: “Nghe nói Bùi cốc chủ với Kỳ chân nhân ở đây nên muốn đến xem mỹ nhân.”

Bùi Thấm bật cười khúc khích, chòng ghẹo: “Bản thân đã là mỹ nhân còn muốn xem mỹ nhân gì nữa? Huống chi, mỹ nhân nào đẹp bằng công tử.”

Tâm tư Tạ Tấn linh hoạt, lòng nghĩ, nếu cứ khăng khăng nói là đến xem mỹ nhân thì cốc chủ với Trưởng Tôn tiền bối nhất định sẽ không tin, chẳng bằng hào phóng thừa nhận là đến xem tiền bối.

Là người thì ai cũng khoan dung với người ngưỡng mộ mình hơn một chút. Dù tính tình của tiền bối có tệ thật như trong lời đồn, sau khi nghe xong loại ca tụng kiểu này hẳn sẽ không quở trách quá nặng nề đâu nhỉ.

Thế là y bèn nói: “Hai người chúng ta ngưỡng mộ Trưởng Tôn tiền bối đã lâu. Ta là đệ tử Tuyết Bang, đương nhiên có thể thường xuyên gặp được tiền bối, nhưng Úc cô nương chưa từng gặp bao giờ. Đáng tiếc xưa nay tiền bối phiêu bạc khắp nơi, hành tung vô định, chưa một lần được diện kiến tôn dung. Sáng nay vừa nghe Bùi cốc chủ, Kỳ chân nhân hẹn nhau ở đây, bèn dẫn nàng ấy tới thử vận may.”

Diệp Ngọc Đường: “...” Có bệnh.

Trưởng Tôn Mậu hỏi tiếp: “Vậy cho hỏi, đã nhìn đủ chưa? Thấy hài lòng chứ?”

Tạ Tấn thổi phồng nịnh nọt không cần nháp trước: “Trước đây chưa gặp, vốn tưởng rằng người tiếng tăm lừng lẫy giang hồ như Trưởng Tôn tiền bối hẳn là dáng vẻ chất phác lắm, gặp được rồi mới biết mày rồng mắt phượng, trời sinh khí chất...”

Diệp Ngọc Đường càng nghe càng phiền, dần không chịu nổi nữa, nghe được một nửa liền lau sạch bọt nước trên mặt, dứt khoát quay đầu bỏ đi.

Tạ Tấn lật đật gọi với theo: “Úc cô nương...” Rồi lại ngại có mặt chư vị tiền bối ở đây, không dám chưa chào đã đi.

Bùi Thấm cười nói: “Đuổi theo đi!”

Tạ Tấn nghe vậy, vội nhấc chân đuổi theo.

Hai bóng người một tím một đen càng chạy càng xa, chớp mắt đã không còn bóng dáng.

Mây mù trong núi tan đi, ánh nắng mặt trời rọi xuống, đàn tế trang nghiêm, tiếng tụng kinh lại tiếp tục vang lên. Bùi Thấm ngáp một cái thật to, lại bắt đầu tưởng niệm người sư tỷ tuổi trẻ mất sớm của mình.

Trưởng Tôn Mậu ngước mắt lên nhìn Yết Tâm Quán, lúc này mới men theo đường mòn trở lại trên núi.

Tạ Tấn phí rất nhiều sức lực mới bắt kịp nàng.

Y nghĩ thế nào cũng không ra, vì sao một cô nương bị thọt chân lại chạy còn nhanh hơn cả bánh xe như thế.

Không chỉ chạy nhanh mà tính tình còn rất cáu kỉnh.

“Ngươi không từ mà biệt, để lại ta một mình đối mặt với các vị tiền bối, ngươi bảo ta phải ăn nói thế nào?”

“Ăn nói cái rắm.”

“Tốt xấu gì cũng là một cô nương, đừng có suốt ngày rắm tới rắm lui như thế. Ngươi đang giận cái gì?”

Diệp Ngọc Đường tức không chỗ trút, quay đầu lại hỏi: “Một mình ngươi thầm mến Trưởng Tôn Mậu là được rồi, mắc mớ gì kéo cả ta vào?”

“Ta thầm mến gì chứ...” Tạ Tấn dở khóc dở cười: “Hơn nữa, thầm mến Trưởng Tôn tiền bối có gì mất mặt đâu, nữ tử giang hồ trong trấn Thái Ất, tùy tiện túm bừa một người cũng là người thầm mến tiền bối.”

“Hắn thì có gì mà thích?”

Lời này khiến Tạ Tấn ngẩn ra, không khỏi hỏi lại: “Tiền bối có điểm nào không thể thích?”

Diệp Ngọc Đường không thể hiểu nổi: “Võ công không lo luyện, tính tình cũng không đứng đắn; trêu hoa ghẹo nguyệt, trêu mèo chọc chó thì rõ thành thạo. Người khác tặng hắn cái danh đệ nhất thiên hạ, hỏi hắn là đệ nhất gì, thì ra là mặt dày đệ nhất thiên hạ, miệng thối đệ nhất thiên hạ, lại còn dương dương đắc ý, thích hắn?”

Nói xong một tràng, nàng quay đầu đi thẳng, nhoáng cái đã mất bóng.

Tạ Tấn đứng sững tại chỗ, nhẩm đi nhẩm lại lời nói vừa nãy, càng nghĩ càng thấy hoang mang.

Hẳn là cô nương này bị chứng ảo tưởng rồi, sao Trưởng Tôn Mậu mà nàng nói với Trưởng Tôn Mậu mà người đời đều biết lại khác nhau như thế?