Phần mở đầu
Hooperville, OregonChủ nhật, ngày mùng 6 tháng 4 năm 1890
Khi Douglas Montgomery tỉnh táo, mọi người vẫn có thể chịu đựng được việc ở bên cạnh hắn, nhưng một khi hắn say thì Alan Dristol lại thấy rất sợ. Tại sao ư, Alan cũng không rõ. Nhưng anh biết, Douglas chẳng bao giờ làm chuyện gì quá độc ác với người khác. Dẫu vậy, Alan vẫn không thể nào thoát khỏi cảm giác sợ hãi ấy.
Ý nghĩ đó làm Alan bận lòng khi buộc anh phải xét lại chính con người mình. Nếu không ưa Douglas thì tại sao anh lại giao du với hắn, đấy là chưa kể việc rượu chè cùng hắn nữa? Alan đã tự vấn câu hỏi đó hàng chục lần, và câu trả lời thì kể cũng khó chấp nhận, rằng anh rất sợ nói không với Douglas. Không – một từ thật đơn giản. Nhưng nói với kẻ như Douglas thì thật chẳng đơn giản chút nào.
Ghìm ngựa chậm lại, ánh nắng sớm khiến Alan phải nheo mắt mới thấy được tấm lưng bốn người bạn đồng hành lúc họ cưỡi ngựa đi lên trước anh. Dẫn đầu đoàn là Douglas Montgomery, kẻ cao hơn những người khác một cái đầu và có bờ vai rộng hơn. Như thế để khẳng định quyền làm chủ của mình, cứ chốc chốc hắn lại giáng một cú thúc vào hai bên sườn con ngựa thiến và không ngừng giật mạnh dây cương của con thú tội nghiệp. Chứng kiến cảnh ngược đãi đó, Alan cảm thấy hơi ớn. Con ngựa vẫn ngoan ngoãn và Douglas hoàn toàn không nhất thiết phải đối xử khắc nghiệt với nó đến thế.
Alan đưa mắt về phía James Radwich, Roddy Simms và Sam Peck, ba chàng trai trẻ đang đi trước anh. Họ là bạn thân của anh lâu lắm rồi, từ cái thuở mặc quần xà lỏn, đến độ anh cảm giác mình hiểu rõ họ như chính bản thân mình. Anh ngờ rằng cả ba người họ đều sợ Douglas giống mình. Thật đáng thương làm sao khi đêm qua họ đã từ bỏ mọi thứ được dạy dỗ để lẽo đẽo theo sau Douglas như đàn vịt con xếp hàng theo mẹ, cùng hắn vào nhà thổ, chôn vùi tội lỗi trong men rượu để rồi sáng nay phải trả giá bằng những trận đau đầu như búa bổ. Chúa ơi, hôm nay là Chủ nhật. Mọi thành viên trong gia đình các anh chắc đang ở nhà thờ, rồi họ sẽ thắc mắc rằng các anh đang ở đâu? Không ai trong số các anh có chút lập trường nào sao?
Douglas đẩy con ngựa sang bên đường để chặn lối đi rồi bỏ chiếc mũ quả dưa bằng nỉ xám ra và lấy tay áo lau những giọt mồ hôi trên trán. Tháng Tư năm nay khô hanh đến bất thường, hai tuần trước trời mưa lắc rắc nên đường đầy bụi bặm. Hắn nhăn mặt khi thấy bụi bẩn trên trán dính đầy vào cổ tay áo trắng của mình. “Giờ chúng ta đi bơi cho tỉnh táo”, hắn nói với giọng thách thức, “Đứa nào xuống sau là thằng nhãi bám váy mẹ”.
Thác Misty và hồ bơi ưa thích của họ cách không bao xa. Gần như không tin vào tai mình, Alan liếc theo hướng đó. Douglas rất khoái làm những điều hoang dại và điên rồ. Càng mạo hiểm càng tốt. Nhưng ngay sau đêm qua thì chuyện này thật quá đáng. “Bơi ư? Mày mất trí rồi sao? Chúng ta sẽ chết cóng mất thôi.”
“Chúa ơi, Alan, mày đúng là cái đồ công tử bột. Ngoài này đang nóng chảy mỡ ra. Tao đang mướt mát mồ hôi và mày cũng có khác gì đâu.”
“Với mớ quần áo đầy đủ và khô ráo này, ờ phải, tao đang vã mồ hôi”, Alan thừa nhận, “Nhưng nếu nhảy xuống hồ bơi đó, tao sẽ không thế nữa”.
“Nước trong hồ đó là tuyết tan từ trên núi chảy xuống”, Roddy chỉ ra. “Cái lạnh đúng là không dễ chịu chút nào đâu, Douglas.”
“Cái lạnh không dễ chịu ư? Mày có còn là một thằng đàn ông không, Roddy? Hay là một con đàn bà tối ngày rêи ɾỉ rồi ăn mặc cho giống thằng đàn ông thôi?”
Mặt Roddy đỏ gay vì ngượng, nhưng cũng chẳng nói được gì để bảo vệ cho cái khí chất đàn ông của mình. Không một ai trong số họ từng đứng lên chống lại Douglas.
Douglas khịt mũi vẻ khinh bỉ rồi thúc ngựa tiến vào con mương chạy dọc đường đi. Vừa huơ huơ mũ, hắn vừa gào lên như mèo khi con ngựa thiến của mình nhảy lên bờ mương. Alan hồ nghi nhìn ba người bạn của mình và thừa biết rằng chẳng ai trong số họ muốn bơi lặn gì cả. Nhưng ngặt nỗi, anh cũng biết tất cả bọn họ đều khúm núm trước cái ý thích chợt nảy ra của Douglas vì không một ai có gan chống lại hắn.
“Sao?”, Roddy nói.
Sam thở dài. “Đôi lúc tao ước giá lại chỉ có bọn mình thôi, và chẳng bao giờ dính dáng đến thằng cha kia.”
“Tao tán thành”, James thêm vào.
Alan cũng có chung cảm nhận, nhưng vấn đề đó dường như còn phải bàn cãi. Thực tình thì, Douglas không chỉ gia nhập vào mà còn thâu tóm cả nhóm họ. Bốn người họ cho ngựa quay đầu rồi miễn cưỡng đi về phía ngọn thác. Như thể cảnh báo trước, gió tự dưng nổi lên, l*иg lộng và mát lành dễ chịu phả vào mặt Alan. Gió táp vào làn da ẩm ướt khiến Alan cảm thấy lạnh thấu xương.
Thay vì đi theo lối mòn, Douglas băng rừng tiến đến hồ bơi, địa hình thật hiểm trở. Cây Madrone(1), nguyệt quế, sồi cằn cỗi và linh sam xoắn chằng chịt lấy nhau như những ngón tay viêm khớp của một bà lão chắn mất lối đi, những thân cây to lớn đầy mấu đâm lên từ các bụi cây rậm rạp. Chẳng thể nào nhìn thấy đường đi. Sợ rằng ngựa không may vấp ngã vào ổ gà nào đó rồi gẫy mất chân trước nên Alan cho nó đi nước kiệu. Còn mấy người bạn của anh vì sợ làm Douglas giận dữ nếu rề rà nên chẳng nhượng bộ gì. Ngoài cái giá phải trả là con ngựa bị hủy hoại, Alan cũng thấy mấy người kia chẳng có chút mảy may nhân đạo nào khi không ngừng thúc giục ngựa băng qua vùng đất gồ ghề. Nhưng Alan đơn giản chỉ là kẻ đi theo chứ không phải là người chỉ huy. Bất cứ thứ gì Douglas khăng khăng muốn thì người khác đều phải phục tùng, và tất nhiên những chú ngựa và mọi thứ khác cũng sẽ phải chịu bị đày đọa
(1) Một loại cây họ thạch nam ở Bắc Mỹ.
Là người đi sau rốt, Alan nghe thấy tiếng của bốn người kia vọng lại qua rặng thông và linh sam. Tiếng thúc ngựa, tiếng la ó. Dù oán giận Douglas nhưng anh vẫn mỉm cười khi tưởng tượng cảnh Sam, Roddy và James tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ nhảy xuống hồ nước lạnh cóng. Mấy thằng ngốc điên rồ. Thế nào cũng bị viêm phổi cho coi, và tất cả chỉ để làm tên Montgomery khoái trá. Trời đánh thánh vật dòng họ nhà Montgomery. Trời đánh thánh vật cái ngôi nhà đẹp đẽ trên đồi kia. Trời đánh thánh vật cả tiền bạc của họ nữa. Đôi lúc, Alan tự hỏi liệu có phải cái gã tự xưng là thủ lĩnh kia nảy ra mấy cái trò kỳ quặc chỉ để xem hắn có thể đẩy người khác đi đến đâu không.
Cuối cùng cũng thoát khỏi lùm cây vấn vít, Alan ngạc nhiên khi chưa thấy ai xuống nước. Anh khum bàn tay trên mắt để nhìn cho rõ tất cả những thứ hỗn tạp kia là gì và khẳng định rằng có năm dáng người đang đứng trước hồ bơi, bốn người bạn đồng hành của anh và một cô gái nhỏ nhắn. Douglas đã lấy chiếc khăn choàng của cô gái và giơ nó quá tầm với của cô. Vẫn như mọi khi. Hễ có cơ hội được hϊếp đáp người khác là Douglas chớp lấy liền. Dù thấy khó chịu nhưng Alan cho rằng cách trêu chọc đó không vượt ngưỡng vô hại.
Rồi anh nhận ra cô gái. Đó là Annie Trimble, cô gái thiểu năng trong thị trấn. Dẫu đã gần hai mươi và qua thời trẻ dại từ lâu nhưng trông cô thậm chí càng trẻ con và đáng thương hơn trong bộ váy yếm xanh dương kỳ dị, cùng bít tất dài đen và đôi giày đính cúc cao bê bết bụi bẩn. Mẹ Alan vẫn thường qua nhà Trimble chơi nên anh biết bà Edie Trimble luôn cố gắng giữ cho con gái mình gọn gàng sạch sẽ, nhưng Annie cứ thích chạy đùa trong rừng đến nỗi nó trở thành một nhiệm vụ bất khả thi.
Tim anh thắt lại trước vẻ hốt hoảng trên gương mặt nhỏ nhắn của cô lúc cô điên cuồng chộp lại chiếc khăn. Annie hay quên đồ mặc trong rừng nên người nhà rất nghiêm khắc với cô trong vấn đề phải mang đồ về. Alan biết rằng thế nào cô cũng bị rầy la, tệ hơn là, nếu trở về nhà trong tình trạng không mảnh vải che thân thì cha cô, ngài thẩm phán, vốn đã không tin vào việc kiệm đòn roi và nỗi khổ của Annie nên sẽ trừng trị cô mạnh tay hơn nhiều so với ba đứa con gái lớn của mình.
Alan không vì thế mà trách ngài thẩm phán hay nghĩ ông ta ác độc. Người khờ dại như Annie rất khó kiểm soát, và bố mẹ cô chắc sẽ được ngợi khen vì giữ cô ở nhà. Hầu hết mọi người chắc sẽ tống đứa con như Annie vào nhà thương điên. Nếu chẳng phải vì nhà Trimble xoay sở để giữ cô cho khuất mắt phần lớn thời gian khi có khách đến chơi thì rất có thể ông bà ấy đã bị cái xã hội văn minh này khai trừ rồi. Không ít kẻ thấy khó chịu với những người như Annie. Dẫu vậy, cha mẹ Annie vẫn không muốn đưa cô vào trại từ thiện, mà chọn cách làm mờ nhạt đi sự tồn tại của cô.