Bọt nước bị khuấy động ào ào, bắn tung tóe vào lá hoa cây đỗ nhược. Chiếc lá xanh biếc thon dài đong đưa trong gió, nhỏ từng giọt nước.
Tự Hạo bơi trong nước, nước sông lạnh lẽo giống như lụa tơ tằm mơn trớn da thịt. Anh thoải mái vung cánh tay lắc lư hai chân giống như hóa thân thành con cá lớn dài mà dẹt thân, tự do tự tại.
Nước sông trong suốt thấy đáy, khi ánh mặt trời chiếu rọi xuống, con ba ba lớn chạy trốn trong hồ kia không còn chỗ dung thân.
Bốn cái chân nó ngắn ngủn trượt về phía trước còn Tự Hạo đuổi theo ở phía sau. Càng ngày càng gần sắp đuổi tới nó. Anh giang hai tay, một tay vồ bắt lấy nó.
Tự Hạo đạp đạp hai chân trồi lên mặt nước, hai tay cầm chặt con ba ba nặng trĩu, nở nụ cười vui vẻ hiếm hoi. Con ba ba ỉu xìu, thò cổ nhìn ánh mặt trời rực rỡ ở bờ sông. Nhìn lại vùng nước mà nó đã từng bơi tung tăng lần cuối cùng, .
Nó bị Tự Hạo trói lại, dùng bèo rong buộc rồi xách trên tay.
Ở Nhậm Thủy có rất nhiều ba ba, dân chăn nuôi địa phương không biết cách bắt chúng nó, chỉ mỗi Tự Hạo giỏi bơi lội, lần nào cũng bắt được ba ba to.
Con ba ba trong tay anh thật ra không tính là to. Tự Hạo từng nghe ông ngoại kể rằng Nhậm Thủy có một nơi gọi Chuy Chỉ, sinh ra rất nhiều ba ba lớn. Chúng lớn như con trâu, có bắt được cũng không dùng để ăn. Mà chúng bị người đánh cá nâng lên thuyền lớn, dọc theo con sông Lạc vận chuyển tiến cống cho Đế Ấp. Đó đã là chuyện từ rất lâu rồi.
Trên đường về nhà, cơn gió chạng vạng thổi lướt qua bụi gừng dại mọc trên đất cát. Cành lá tươi tốt, xanh mướt một khảnh. Tự Hạo cúi người, thò tay nhổ hai cây, nhét vào dây thừng cỏ trói con ba ba. Anh thành thạo bện dây thừng cỏ như một người thủ công làm lâu năm.
Ngón tay phủ đầy vết thương lắt nhắt, ống tay áo sờn rách, sờn đến từng cọng vải thô. Mấy ngày nay chăn thả bên bờ Nhậm Thủy, một mình anh quạnh quẽ sống cuộc sống tay làm hàm nhai.
Trên người anh mặc đồ vải thô, không chỉ hai tay áo sờn rách mà cái áo cũng rách bươm. Cổ áo thủng một lỗ to, bay phấp phới trong gió.
Ánh nắng chiều dần tắt, thiếu niên anh tuấn mặc đồ lam lũ mang theo thức ăn và gia vị đi đến một căn nhà đất cách đó không xa, đó chính là nhà của anh.
Châm lửa lò sưởi lên, Tự Hạo cầm một phiến đá có muội khói đặt trên lò lửa nướng nhiệt.
Anh cởi trói cho con ba ba, lật ngửa nó lên, đợi nó vươn đầu ra lập tức bóp chặt lấy. Giơ tay chém xuống, cắt cổ lấy máu. Một giọt cũng không lãng phí, dùng một cái chén gỗ nhỏ đựng máu.
Tự Hạo có đoản đao đồng đen sắc bén, chuôi đao được trang trí hoa văn tinh xảo tuyệt mỹ.
Sau khi chảy hết máu, con ba ba bị tách thành tám khối, đặt sát trên phiến đá để nướng. Dùng tảng đá đập bẹp gừng dại rồi cho nướng cùng con ba ba trên phiến đá để khử mùi. Dân chăn nuôi nơi này làm thịt nướng như thế nên anh học được từ bọn họ.
Tự Hạo không giỏi nấu nướng nên đồ anh ăn phần lớn là nướng. Thịt nướng, cá tôm cua ốc nướng, chim nước nướng, trái cây nướng...
Ngẫu nhiên cũng sẽ nướng vài cái bánh lương thực phụ còn mùi vị ra làm sao ư? Cũng chỉ thế thôi, lấp đầy bụng là được.
Đồ ăn trên phiến đá kêu xèo xèo, không bao lâu mùi hương tỏa ra, anh rắc muối lên thịt con ba ba.
Nướng chín thịt rồi dùng kẹp tre gắp để lên bàn gỗ thô ráp. Hơi nóng tản ra, Tự Hạo dùng đũa tre gắp ăn.
Lửa trong lò sưởi còn cháy phừng phừng, anh đẩy phiến đá nóng ra rồi đặt cái nồi gốm trên lửa. Để nấu nước, chờ nước sôi trào Tự Hạo đổ máu con ba ba vào trở thành nồi canh.
Nồi canh vang tiếng sùng sục, hơi nước bốc lên cao. Lửa lò sưởi chiếu sáng không hết cả căn nhà gỗ đất bùn.
Tự Hạo ngồi bên lò sưởi, hưởng thụ thịt ba ba nướng, cũng không quên chia một phần cho Đại Hắc. Nó rất dễ ăn so với lúc nhặt được lớn hơn rất nhiều.
Một người một chó ở trong căn nhà đất, trải qua ban đêm cô đơn dưới một góc chân núi.
Ăn ba ba xong, huyết khí trào dâng. Trong đêm khuya, anh nằm trên chiếu, trằn trọc khó ngủ. Gió bên ngoài căn nhà thổi qua đất hoang, nghẹn ngào bồi hồi giống như quỷ khóc thú gào. Đến đây đã nhiều ngày, Tự Hạo cũng nhanh thích ứng nhưng đêm nay nghe thật phiền lòng.
Trước bình minh, anh vẫn đang ngủ, mơ một giấc mơ.
Một vầng trăng tàn trong sơn cốc chiếu vào thành lũy cô liêu cao sừng sững. Trong mơ, ngọn lửa cao ngút trời xanh, chiến tranh giao thoa, tiếng chém gϊếŧ chợt xa chợt gần.
Ở một góc xa ngọn lửa, Tự Hạo nhìn thấy một người đàn ông trẻ tuổi mặc lễ phục màu đen, đứng trên đài cao trống trải. Dưới màn đêm lạnh lẽo rét buốt, hắn rút ra thanh kiếm đồng đen của mình. Bảo kiếm màu vàng sáng rực, thân kiếm phản chiếu đôi mắt hắn tuyệt vọng.
Thanh kiếm dài vung lên rồi rơi xuống, ánh sáng lóe lên, những giọt máu đỏ sẫm vẩy tung tóe. Nó xoay tròn trước mắt anh giống như chủ nhân thanh kiếm chính là anh chứ không phải cha anh.
Trong mơ, mũi kiếm sượt qua da thịt Tự Hạo, lưu lại một vết máu trên hai má. Anh cảm nhận được phần bén nhọn và lạnh lẽo, sợ hãi cùng tuyệt vọng, đó là cái chết.
Anh bừng tỉnh khỏi giấc mơ, mồ hôi chảy ướt cả người. Lấy ra thanh đao đồng đen dưới gối ra, nắm chặt ở trong tay.
Anh lắng nghe tiếng gió bên ngoài căn nhà còn có tiếng dê kêu mới ý thức được mình đang ở góc chân núi. Anh sống biệt lập, làm bạn với chó và dê.
Lửa lò sưởi còn chưa tắt, phát ra ánh sáng mỏng manh. Đại Hắc nằm nhoài ngủ bên cạnh lò sưởi, ngủ rất say sưa. Tự Hạo nằm lại chiếu, nắm chặt thanh đao không ngủ.