Chúng tôi thấy mình đang đứng trong một hành lang dài, tối tăm, lạnh lẽo. Tôi đã mặc áo jacket mà vẫn thấy lạnh run người. Tôi hỏi Steve:- Sao ở ngoài ấm, trong này lạnh khϊếp vậy?
- Mấy ngôi nhà cũ đều thế cả.
Tôi mừng vì cuối hành lang có một ngọn đèn, càng vào sâu, lối đi càng sáng dần. Nếu hành lang này tối om, chắc tôi sợ đến không bước nổi.
Vách tường, trần nhà loang lổ, lỗ chỗ. Giữa trưa vào nơi này cũng phải dựng tóc gáy, huống gì bây giờ đã là mười giờ đêm.
Steve đứng lại, nói:
- Có một cái cửa này.
Nó mới mở hé, cánh cửa đã rên lên ầm ầm như tiếng nắp quan tài bị nạy ra. Tôi suýt ù té chạy.
Nhưng thằng Steve chẳng hề sợ hãi gì, nó thò đầu vào trong. Sau vài giây quen với bóng tối, nó quay lại bảo:
- Có một cầu thang lên ban công.
- Chỗ thằng nhỏ ngã xuống hả?
- Ừa.
- Mình lên không?
- Thôi. Trên đó tối thui, chẳng thấy có đèn đóm gì. Thử tìm xem còn lối vào nào nữa không…
- Các em cần giúp gì không?
Tiếng nói ngay phía sau, làm hai chúng tôi giật nẩy mình quay ngoắt lại. Người đàn ông cao nhất thế giới đứng nhìn xuống như chúng tôi là hai con chuột nhắt. Ông ta cao gần đυ.ng trần nhà, hai bàn tay xương xẩu to đùng và hai mắt đen thui như hai cục than được gắn trên mặt. Miệng ông không hề mấp máy, tiếng nói ồ ề, khản đặc vẫn phát ra. Chắc chắn ông ta có biệt tài phát âm bằng bụng.
- Đêm hôm khuya khoắt rồi mà trẻ con vẫn lang thang thế này sao?
Steve vừa liếʍ môi vừa ngập ngừng nói:
- Chúng cháu đi… đi xem xiếc kinh dị.
- Hả? Các em có vé không?
Steve đưa ra cái vé. Ông ta lẩm bẩm:
- Tốt lắm. Còn em, Darren, em cũng có vé chứ?
Tôi thọc tay vào túi, bỗng sững sờ: Trời đất! Ông ta biết tên mình!
Tôi liếc qua Steve, hai chân cậu ta run bần bật.
Ông ta mỉm cười. Hàm răng đen, cái còn cái mất. Lưỡi vàng khè.
- Ta tên là ông Cao. Ta là chủ nhân gánh xiếc quái dị này.
Steve hỏi:
- Tại sao ông biết tên bạn cháu?
Ông Cao cười sằng sặc, khom mình, mắt sát mắt Steve:
- Ta còn biết nhiều hơn thế. Ta biết cả tên em. Ta biết em ở đâu. Ta biết em không thích cha mẹ.
Ông ta lùi lại một bước, quay sang tôi. Hơi thở của ông ta bốc mùi hôi tới tận trời.
- Ta biết em không nói cho cha mẹ biết là em tới đây. Ta biết em đã thắng để có vé bằng cách nào.
- Cách nào?
Không biết có phải vì răng tôi va vào nhau lộp cộp, làm ông ta không nghe được câu hỏi, hay vì không muốn trả lời, ông ta quay lưng lại, vừa bước đi vừa nói:
- Lẹ lên mới kịp. Buổi diễn sắp bắt đầu rồi.
Ông ta không sải bước dài như tôi tưởng. Nhưng ông ta vừa rẽ khuất vào cuối hành lang trước chúng tôi vài bước, khi rẽ theo ông, chúng tôi đã thấy ông ta ngồi sau một cái bàn dài phủ vải đen, đầu đội một cái mũ đỏ và tay đeo găng đàng hoàng. Một tay đưa ra, ông nói:
- Vui lòng cho soát vé.
Cầm hai cái vé ông ta bỏ tõm vào mồm, nhóp nhép nhai rồi… nuốt.
- Tốt rồi. Bây giờ hai em có thể vào đi. Đúng qui định, chúng tôi không tiếp đón trẻ em, nhưng thấy hai cậu đàng hoàng, rõ là hai chàng trẻ tuổi dũng cảm. Nên… coi như đây là một ngoại lệ.
Cuối sảnh có một tấm màn xanh che ngang lối đi. Chúng tôi ngập ngừng ngó nhau. Steve hỏi:
- Chúng cháu đi thẳng qua màn ạ?
- Tất nhiên.
- Có người dẫn lối không?
Ông ta cười lớn:
- Nếu cần phải có người nắm tay đưa vào, sao không đi cùng bà vυ'?
Tôi giận đến quên sợ, đi thẳng lại vén tấm màn, làm thằng Steve cũng phải ngạc nhiên.
Tôi không biết tấm màn làm bằng gì, nhưng nó nghe hẫng như tơ nhện. Tôi đứng trong một hành lang ngắn, trước mặt tôi vài thước còn có một tấm màn xanh nữa. Steve tiến đến bên tôi. Chúng tôi nghe tiếng ồn ào phía sau bức màn.
- Mày thấy có an toàn không?
- Tao thấy tiến tới coi bộ còn an toàn hơn là rút lui. Lão Cao chắc sẽ không thú vị gì nếu chúng mình quay lại.
- Mày thấy chuyện ông ta biết tất cả về chúng mình là sao?
- Chắc lão biết xem bói.
- Ông ta làm tao chết khϊếp được.
- Tao thì hơn gì mày.
Chúng tôi tiến bước.
Đó là một căn phòng rộng. Ghế dựa đã dẹp bỏ từ lâu. Nhưng những băng ghế dài đã được kê thay ghế. Chúng tôi dáo dác tìm ghế trống. Cả khán phòng gần như chật cứng. Nhưng chỉ hai chúng tôi là trẻ con. Mọi người lom lom nhìn hai đứa và tiếng rì rầm bàn tán nổi lên.
Len lỏi đến hai ghế trống, qua những đôi chân và tiếng càu nhàu. Đó là một chỗ ngồi rất tốt: ngay chính giữa và không có ai quá cao ngồi phía trước. Chúng tôi nhìn lên sân khấu rất rõ. Tôi hỏi Steve:
- Ở đây có bán bắp rang không nhỉ?
- Vớ vẩn. Cậu muốn mua bắp rang trong rạp xiếc quái dị à? May ra có bán trứng rắn, mắt thằn lằn. Tớ cá là không có bắp rang đâu.
Khán giả quanh tôi đủ mọi thành phần: từ y phục rất hợp thời trang, tới quần áo lao động. Từ già khú khụ tới những người chỉ hơn tôi và Steve mấy tuổi. Có những người cười nói oang oang với bạn bè như đang xem bóng đá. Nhưng lại có những người ngồi im thin thít, lo ngại nhìn quanh.
Tuy nhiên có một điều rất giống nhau, tất cả đều tỏ vẻ tò mò háo hức, chờ đợi những gì đặc biệt, chưa từng được thấy bao giờ.
Giữa lúc đó, một hồi kèn rộn rã vang lên. Mọi người đều im bặt. Tiếng kèn kéo dài, mỗi lúc một lớn hơn. Các ngọn đèn lần lượt tắt. Chung quanh tôi tối om om. Tôi bắt đầu thấy sợ, nhưng đã quá muộn để tháo lui.
Thình lình tiếng kèn tắt lịm. Im lặng như tờ. Tai tôi ù ù mất mấy giây, làm tôi chóng mặt. Cố bình tĩnh, tôi ngồi thẳng lại.
Một ngọn đèn xanh tỏa sáng trên sân khấu. Mấy giây kỳ quái trôi qua, vì sân khấu hoàn toàn im ắng, không có gì xảy ra. Rồi hai người đàn ông xuất hiện, kéo theo một cái l*иg có bánh xe và được phủ kín bằng một thứ, trông giống như một tấm thảm bằng da gấu. Ra tới giữa sân khấu, hai người đàn ông ngừng lại, buông sợi dây kéo, rồi chạy vào sau cánh gà.
Mấy giây sau, tiếng kèn rúc lên ba hồi ngắn. Tấm thảm bay bổng khỏi cái l*иg, để lộ ra quái nhân đầu tiên.
Ngay lúc đó tiếng la thét bắt đầu vang lên.